Lịch sử Quần_đảo_Falkland

Người Fuego có thể từng đến Quần đảo Falkland vào thời tiền sử,[15] song khi được người châu Âu phát hiện thì quần đảo không có người ở.[16] Các tuyên bố phát hiện xuất hiện từ thế kỷ XVI, song không có sự nhất trí về việc liệu những nhà thám hiểm ban đầu này có phát hiện được Quần đảo Falkland hoặc các đảo khác tại Nam Đại Tây Dương hay không.[17][18][lower-alpha 2] Cuộc đổ bộ có ghi chép đầu tiên lên quần đảo được cho là của Thuyền trưởng người Anh John Strong, người này đang trên đường đến miền duyên hải của Peru và Chile vào năm 1690, phát hiện eo biển Falkland và ghi chép về vùng biển và động vật hoang dã trên quần đảo.[20]

Quần đảo Falkland vẫn không có người ở cho đến năm 1764, khi thuyền trưởng người Pháp Louis Antoine de Bougainville thiết lập Port Louis trên đảo Đông Falkland. Năm 1766, thuyền trưởng người Anh Quốc John MacBride thành lập Port Egmont trên đảo Saunders.[lower-alpha 3] Vấn đề các khu định cư có nhận thức được sự hiện diện của nhau hay không là chủ đề gây tranh luận giữa các sử gia.[23][24] Năm 1766, Pháp từ bỏ yêu sách đối với Quần đảo Falkland cho Tây Ban Nha, và đế quốc này đổi tên thuộc địa của Pháp thành Puerto Soledad vào năm sau.[25] Các vấn đề bắt đầu khi Tây Ban Nha phát hiện Port Egmont; và chiếm cảng vào năm 1770, hai bên tránh được chiến tranh do Tây Ban Nha hoàn trả cho Anh Quốc vào năm 1771.[26]

Hai khu định cư của Anh Quốc và Tây Ban Nha cùng tồn tại trên quần đảo cho đến năm 1774, khi mà Anh Quốc tự nguyện triệt thoái khỏi quần đảo do suy xét đến kinh tế và chiến lược mới, để lại một tấm biển tuyên bố chủ quyền Quần đảo Falkland nhân danh Quốc vương George III.[27] Phó vương quốc Río de la Plata của Đế quốc Tây Ban Nha là bên duy nhất có sự hiện diện chính phủ trên lãnh thổ. Đảo Tây Falkland bị bỏ rơi, và Puerto Soledad trở thành nơi hầu như là một trại tù.[28] Trong khi Anh Quốc xâm chiếm Río de la Plata, thống đốc của quần đảo rút đi vào năm 1806; đơn vị đồn trú còn lại của Tây Ban Nha cũng làm vậy vào năm 1811, ngoại trừ các gaucho và ngư dân tự nguyện ở lại.[28]

Sau đó, chỉ có các tàu cá đi đến quần đảo; tình trạng chính trị của quần đảo không bị tranh chấp cho đến năm 1820, khi Thượng tá David Jewett, một tư lược người Mỹ làm việc cho Liên hiệp tỉnh Río de la Plata, thông báo cho các tàu thả neo về tuyên bố chủ quyền vào năm 1816 của chính phủ tại Buenos Aires đối với các lãnh thổ của Tây Ban Nha tại Nam Đại Tây Dương.[29][30][lower-alpha 4] Do quần đảo không có cư dân thường xuyên, đến năm 1823 thì chính phủ tại Buenos Aires ban cho thương nhân sinh tại Đức là Luis Vernet giấy phép để quản lý các hoạt động ngư nghiệp và khai thác bò hoang trên quần đảo.[lower-alpha 5] Luis Vernet định cư trên những tàn tích của Puerto Soledad vào năm 1826, và tích lũy tài nguyên trên quần đảo cho đến khi đầu cơ đạt đủ để đưa người định cư đến và hình thành một thuộc địa thường xuyên.[34][35] Năm 1829, chính phủ tại Buenos Aires bổ nhiệm Luis Vernet là chỉ huy viên quân sự và dân sự của quần đảo,[36] và ông nỗ lực điều tiết nhằm chấm dứt các hoạt động của những người ngoại quốc săn bắt cá voi và hải cẩu.[28] Sự đầu cơ của Luis Vernet kéo dài cho đến khi xảy ra một tranh chấp về quyền đánh cá và săn bắn dẫn đến một cuộc tập kích của chiến hạm Hoa Kỳ USS Lexington vào năm 1831,[37][lower-alpha 6] khi đó sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ Silas Duncan "tuyên bố chính phủ đảo kết thúc".[38]

Miêu tả một khu định cư tại quần đảo Falkland vào năm 1849; tranh của Đô đốc Hải quân Hoàng gia Anh Edward Fanshawe

Chính phủ tại Buenos Aires cố gắng duy trì ảnh hưởng đối với khu định cư bằng việc đặt một đơn vị đồn trú, song xảy ra binh biến 1832, đến năm sau thì lực lượng Anh Quốc đến và tái xác nhận quyền cai trị của Anh Quốc.[39] Liên bang Argentina (đứng đầu là Thống đốc Buenos Aires Juan Manuel de Rosas) kháng nghị các hành động của Anh Quốc,[40][lower-alpha 7] và các chính phủ Argentina kể từ sau đó duy trì kháng nghị chính thức phản đối Anh Quốc.[43][lower-alpha 8] Binh sĩ Anh Quốc dời đi sau khi hoàn thành sứ mệnh của họ, để lại khu vực "gần giống như đất không người".[45] Cấp phó của Luis Vernet là một người Scotland mang tên Matthew Brisbane trở lại quần đảo trong cùng năm để khôi phục thương nghiệp, song các cố gắng của người này kết thúc sau khi gaucho Antonio Rivero dẫn đầu một nhóm "người bất mãn" ám sát Brisbane và những lãnh đạo bề trên của khu định cư trong bối cảnh bất ổn tại Port Louis; những người sống sót trốn trong một hang trên một đảo lân cận cho đến khi Anh Quốc trở lại và khôi phục trật tự.[45][lower-alpha 9] Năm 1840, quần đảo Falkland trở thành một thuộc địa vương thất, sau đó những người định cư Scotland thiết lập một cộng đồng mục đồng chính thức.[47] Bốn năm sau, gần như mọi người chuyển tới Port Jackson vì cho rằng đây là địa điểm tốt hơn đối với chính quyền, và thương nhân Samuel Lafone bắt đầu một vụ đầu cơ nhằm khuyến khích người Anh Quốc thuộc địa hóa.[48][49][lower-alpha 10]

Port Jackson sớm đổi tên thành Stanley, và địa điểm này chính thức trở thành nơi đặt trụ sở chính phủ vào năm 1845.[51] Trong lịch sử ban đầu của mình, Stanley có danh tiếng tiêu cực do những tổn thất tàu vận tải; chỉ các trường hợp khẩn cấp mới khiến các tàu quanh mũi Sừng dừng tại cảng.[52] Tuy thế, vị trí địa lý của quần đảo Falkland tỏ ra lý tưởng đối với duy tu tàu và "mậu dịch tàu chìm", thương vụ mua bán tàu đắm và hàng hóa của chúng.[53] Ngoài hoạt động mậu dịch này, lợi ích thương nghiệp tại quần đảo là tối thiểu do da bò hoang lang thang trên các đồng cỏ có giá trị thấp. Tăng trưởng kinh tế bắt đầu chỉ sau khi Công ty Quần đảo Falkland, vốn là hãng phá sản của Lafone được mua lại năm 1851, giới thiệu thành công cừu Cheviot cho các nông trại len, thúc đẩy các nông trại khác theo sau.[54][lower-alpha 11] Nguyên liệu nhập khẩu có giá thành cao, cộng với thiếu lao động và hậu quả tất yếu là lương cao, đồng nghĩa với nghề duy tu tàu trở nên không thể cạnh tranh. Sau năm 1870, ngành duy tu tàu suy giảm do các thuyền hơi nước ngày càng thay thế các thuyền buồm, và nghiêm trọng hơn do giá than thấp tại Nam Mỹ; đến năm 1914, ngành này kết thúc trên thực tế khi kênh đào Panama được khánh thành.[55] Năm 1881, quần đảo Falkland trở nên độc lập về mặt tài chính với Anh Quốc.[51] Trong hơn một thế kỷ, Công ty Quần đảo Falkland chi phối mậu dịch và công việc trên quần đảo; thêm vào đó, hầu hết nhà ở tại Stanley thuộc quyền sở hữu của công ty.[52]

Đối kháng hải quân trong trận Quần đảo Falkland năm 1914; do William Lionel Wyllie vẽ

Trong nửa đầu thế kỷ XX, quần đảo Falkland đóng một vai trò quan trọng trong tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Anh Quốc đối với các quần đảo cận cực và một phần châu Nam Cực. Quần đảo Falkland quản lý các lãnh thổ này dưới chính thể Lãnh thổ phụ thuộc Quần đảo Falkland bắt đầu vào năm 1908, chính thể này tồn tại đến khi bị giải thể vào năm 1985.[56] Quần đảo Falkland cũng đóng một vai trò nhỏ trong hai thế chiến khi là một căn cứ quân sự trợ giúp kiểm soát Nam Đại Tây Dương. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, trận quần đảo Falkland diễn ra trong tháng 12 năm 1914, khi một hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh đánh bại một hải đoàn của Đế quốc Đức. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau trận sông La Plata vào tháng 12 năm 1939, tàu tuần dương HMS Exeter của Anh bị hư hại và chạy đến quần đảo Falkland để duy tu.[16] Năm 1942, do lo sợ Nhật Bản chiếm quần đảo, một tiểu đoàn của Anh Quốc đang trên đường đến Ấn Độ thì được tái bố trí đến đồn trú tại quần đảo Falkland.[57] Sau chiến tranh, kinh tế quần đảo Falkland chịu tác động từ việc giá len suy giảm và bất xác định về chính trị do kết quả từ tranh chấp chủ quyền hồi sinh giữa Anh Quốc và Argentina.[52]

Căng thẳng âm ỉ giữa Anh Quốc và Argentina tăng lên trong nửa cuối của thế kỷ XX, khi Tổng thống Argentina Juan Perón khẳng định chủ quyền đối với quần đảo.[58] Tranh chấp chủ quyền tăng cường trong thập niên 1960, một thời gian ngắn sau khi Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết về phi thực dân hóa và Argentina hiểu rằng điều này có lợi cho lập trường của họ.[59] Năm 1965, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 2065, kêu gọi hai quốc gia tiến hành đàm phán song phương để đạt được một giải pháp hòa bình cho tranh chấp.[59] Từ năm 1966 cho đến năm 1968, Anh Quốc thảo luận một cách bí mật với Argentina về vấn đề chuyển nhượng quần đảo Falkland, cho rằng quyết định của họ sẽ được người dân quần đảo chấp thuận.[60] Một hiệp định về liên kết mậu dịch giữa quần đảo và đại lục đạt được vào năm 1971, và bởi vậy Argentina xây dựng một đường băng tạm thời tại Stanley vào năm 1972.[51] Tuy thế, người Falkland bất đồng quan điểm, biểu lộ thông qua sự vận động hành lang mạnh mẽ của họ tại Quốc hội Liên hiệp Vương quốc, và căng thẳng giữa Anh Quốc và Argentina hạn chế tính hiệu quả của các cuộc đàm phán về chủ quyền cho đến năm 1977.[61]

Do lo lắng đền phí tổn để bảo trì quần đảo Falkland trong một thời kỳ cắt giảm ngân sách, Anh Quốc lại cân nhắc chuyển nhượng chủ quyền quần đảo cho Argentina vào đầu nhiệm kỳ của Chính phủ Margaret Thatcher.[62] Các cuộc đàm phán chủ quyền mang tính thực tế lại kết thúc vào năm 1981, và tranh chấp leo thang theo thời gian.[63] Trong tháng 4 năm 1982, bất đồng biến thành một xung đột vũ trang khi Argentina xâm chiếm quần đảo Falkland và các lãnh thổ khác của Anh Quốc tại Nam Đại Tây Dương, chiếm đóng các đảo trong một thời gian ngắn cho đến khi lực lượng viễn chinh của Anh Quốc tái chiếm các lãnh thổ vào tháng 6.[64][65] Sau chiến tranh, Anh Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự của họ, xây dựng Căn cứ Không quân RAF Mount Pleasant và tăng quy mô đơn vị đồn trú.[66] Chiến tranh cũng để lại 117 bãi mìn, chứa gần 20.000 mìn các loại, gồm cả các loại mìn chống xe và chống người.[67] Do số thương vong lớn trong việc rà phá mìn, các nỗ lực ban đầu nhằm dọn sạch mìn bị ngưng lại vào năm 1983.[67]

Theo kiến nghị của Nam tước Edward Shackleton, quần đảo Falkland đa dạng hóa kinh tế từ chỉ dựa vào cừu sang một nền kinh tế du lịch, và ngư nghiệp cùng với viết thiết lập vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo.[68][lower-alpha 12] Mạng lưới đường bộ cũng được phát triển quy mô hơn, và việc xây dựng RAF Mount Pleasant cho phép các chuyến bay đường dài có thể tiếp cận quần đảo.[68] Thăm dò dầu mỏ cũng khởi động, với những dấu hiệu cho thấy có thể có trữ lượng khai thác thương mại trong bồn Falkland.[69] Công việc dọn quang bom mìn tái khởi động vào năm 2009, dựa trên các bổn phận của Anh Quốc theo Hiệp ước Ottawa, và bãi Sapper Hill được dọn sạch mìn vào năm 2012, cho phép tiếp cận một cảnh quan lịch sử quan trọng lần đầu tiên trong vòng 30 năm.[70][71] Argentina và Anh Quốc tái lập quan hệ ngoại giao vào năm 1990; quan hệ trở nên xấu đi do không bên nào có thể chấp thuận các điều khoản trong những thảo luận về tương lai chủ quyền.[72][73] Tranh chấp giữa các chính phủ khiến một số nhà phân tích dựa đoán về khả năng một cuộc xung đột lợi ích ngày càng cao giữa Argentina và Anh Quốc do các hoạt động ngư nghiệp tại vùng biển quanh Falkland phát triển trong thời gian gần đây.[74]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quần_đảo_Falkland http://www.cancilleria.gov.ar/es/la-cuestion-de-la... http://www.umag.cl/investigacion/dpa/docs/267-a.pd... http://www.austlii.com/au/journals/AUYrBkIntLaw//1... http://www.cnn.com/2013/03/10/world/americas/falkl... http://www.falklandnews.com/M%E1%BA%A1ng http://books.google.com/books?id=x7p4AAAAMAAJ http://en.mercopress.com/2009/01/01/new-year-begin... http://en.mercopress.com/2011/03/31/falkland-islan... http://en.mercopress.com/2011/12/08/falklands-land... http://en.mercopress.com/2013/01/31/timerman-rejec...